Cùng Webtaichinh dành 15 phút đọc bài GDP là gì? Ý nghĩa và cách tính chỉ số GDP. Kiến thức này thuộc phần Cryptocurrency vốn rất hot kể từ cuối 2020. Đa phần Webtaichinh lấy nguồn bài từ nước ngoài và một số nguồn uy tín trong nước khác.
Vui lòng đọc bài viết này trong phòng kín để đạt hiệu quả tốt nhất
Tránh xa tất cả các thiết bị gây xao nhoãng trong việc tập trung
Bạn nên bấm Crtrl + D để lưu bài này lại vì Webtaichinh thường xuyên cập nhật
Chỉ tiêu GDP ngày nay được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong các báo cáo thành tích cuối năm ở các địa phương. GDP tăng trưởng cao thường gắn liền với sự hãnh diện, GDP tăng trưởng thấp là một sự lo âu. Nhiều nhà kinh tế “vung tay múa chân” khi bàn về con số tăng trưởng GDP, rồi hiến kế này kế nọ. Vậy thực chất GDP là gì, ý nghĩa của nó ra sao và được tính toán thế nào?
ẩn
GDP là gì?
GDP (Gross Domestic Product) là tổng sản phẩm quốc nội hay tổng sản phẩm nội địa được tính bằng giá trị thị trường của tất cả hàng hóa, dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một quốc gia, một lãnh thổ trong một thời kỳ nhất định thường là một năm. Về bản chất, GDP được xem là chỉ số đánh giá tổng quan nhất về tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức độ phát triển của một khu vực hay một quốc gia.
Lịch sử ra đời của chỉ số GDP
Thực ra, GDP là một chỉ tiêu trong hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts – SNA). SNA của Liên hiệp quốc được các nhà kinh tế hàng đầu thế giới, đứng đầu là Richard Stone (đoạt giải Nobel 1984) đưa ra. SNA đã tập hợp một cách hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng nhằm mô tả, phân tích các hiện tượng kinh tế cơ bản. Hệ thống SNA mô tả quá trình chu chuyển sản phẩm và tiền tệ trong một quốc gia, nó là một tập hợp đầy đủ, phù hợp và linh hoạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Những chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các khái niệm, định nghĩa và quy tắc chuẩn mực được thừa nhận trên phạm vi toàn thế giới.
Hệ thống SNA phục vụ nhiều mục đích khác nhau, trong đó mục đích cơ bản là cung cấp thông tin để phân tích và hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô làm cơ sở cho các nhà quản lý và lãnh đạo các cấp giám sát, nghiên cứu, điều hành và ứng xử với nền kinh tế.
Có thể coi việc tập hợp các chỉ tiêu kinh tế đã hình thành từ thế kỷ 17. Năm 1665, Wiliam Petty và Gregory King (1688) đã đưa ra các chỉ tiêu nhằm đánh giá thu nhập quốc gia và chi tiêu dùng cuối cùng.
Vào thế kỷ 18, các nhà kinh tế Pháp theo trường phái trọng nông làm giảm khái niệm về thu nhập quốc gia do họ quan niệm chỉ có ngành nông nghiệp và khai thác trực tiếp từ thiên nhiên mới thuộc phạm trù sản xuất, tuy nhiên đóng góp của trường phái này về mặt học thuật là rất quan trọng.
Năm 1758, Francois Quesnay một thành viên của phái trọng nông đã xây dựng “Lược đồ kinh tế” (tableou economique) mô tả mối quan hệ liên ngành trong nền kinh tế, và mô hình này được xem như tiền đề của bảng I/O (input-output table) của Leontief sau này.
Adam Smith đã phê phán tư tưởng của trường phái trọng nông và đề cao vai trò của công nghiệp chế biến trong nền kinh tế. Tuy vậy, Adam Smith cũng như Karl Marx, không thừa nhận vai trò của các ngành dịch vụ trong nền kinh tế. Quan điểm này được thể hiện trong “Hệ thống các bảng kinh tế quốc dân – MPS” được áp dụng đối với các nước xã hội chủ nghĩa cho tới những năm 90 của thế kỷ 20.
Vào những thập niên 30 của thế kỷ trước, lý thuyết tổng quát của J.M.Keynes được đưa ra nhằm giải thích hiện tượng khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm thay đổi quan niệm của các nhà kinh tế thời kỳ đó khi họ chỉ sử dụng ý niệm thu nhập quốc gia như là cách đánh giá duy nhất của một quốc gia (vấn đề này giống hệt Việt Nam hiện nay khi coi GDP như chỉ tiêu duy nhất đánh giá tình hình kinh tế của đất nước).
Dựa trên lý thuyết tổng quát của Keynes và lược đồ kinh tế của Francois Quensnay, năm 1941 Wassily Leontief đưa ra mô hình cân đối liên ngành (còn gọi là bảng I/O – được công bố trong công trình nghiên cứu “Cấu trúc của nền kinh tế Hoa Kỳ”).
Đầu những năm 1950, nhu cầu so sánh quốc tế đã thúc đẩy việc xây dựng hệ thống hạch toán quốc gia theo chuẩn mực quốc tế. Năm 1953, Hội Quốc Liên (tiền thân của tổ chức Liên hiệp quốc) xây dựng hệ thống tài khoản quốc gia đầu tiên dựa trên báo cáo của nhóm nghiên cứu trường Đại học Cambridge do Richard Stone đứng đầu. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Hệ thống tài khoản quốc gia, còn gọi SNA, 1953.
Sau một thời gian áp dụng, cơ quan thống kê Liên hiệp quốc đã sửa đổi và kết hợp toàn diện các lý thuyết kinh tế và công bố SNA, 1968. Phiên bản này cũng do chính Richard Stone đứng đầu nhóm sửa đổi (còn gọi nhóm Cambridge). Ông xây dựng hệ thống này với mô hình I/O là trung tâm về ý niệm cũng như cách hạch toán.
Sau đó, do kinh tế thế giới phát triển nhanh và tổ chức Thống kê Liên hiệp quốc cần thống nhất về ý niệm và định nghĩa với các tổ chức khác như WB, IMF, Ủy ban Thống kê châu Âu (EUROSTAT), Tổ chức Hợp tác và phát triển châu Âu (OECD), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… những thành viên của các tổ chức này và chuyên gia kinh tế của các nước thành viên đã nhóm họp và SNA, 1993 ra đời.
Từ năm 1954-1975 đất nước Việt Nam chia làm hai miền thuộc hai chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Bắc, ngành thống kê áp dụng phương pháp luận của “Hệ thống các bảng cân đối vật chất – MPS”. Ở miền Nam, Viện Thống kê thuộc chính quyền Sài Gòn áp dụng “Hệ thống các tài khoản quốc gia – SNA”. Thời kỳ 1976-1988 đất nước thống nhất, ngành thống kê áp dụng MPS cho phạm vi cả nước.
Từ 1989 đến nay, ngành thống kê Việt Nam áp dụng SNA trên phạm vi toàn quốc (ngày 25-12-1992, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 183/TTg về việc chính thức áp dụng hệ thống SNA trên phạm vi cả nước thay cho hệ thống MPS trước đây).
Phân loại GDP
GDP hàng hóa
GDP là giá trị của tất cả các loại hàng hóa hay tất cả các loại dịch vụ được tính trên 1 vùng lãnh thổ theo một khoảng thời gian xác định nào đó.
Với mỗi loại hàng hóa, dịch vụ, GDP sẽ được tính trong khoảng thời gian với các mốc 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hay 1 năm. Tức là tính theo các quý trong năm tùy thuộc vào từng lĩnh vực.
Giá trị của GDP sẽ được áp dụng chung đối với hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ của các ngành nghề cho cả công ty trong nước hay nước ngoài.
GDP đầu người
GDP được chia thành GDP bình quân đầu người và được nhắc tới nhiều nhất trong lĩnh vực này. GDP bình quân đầu người là phản ánh về mức thu nhập, mức sống của người dân trong 1 khu vực, lãnh thổ, quốc gia. Mức GDP bình quân đầu người này chỉ ở khoảng tương đối chứ không chính xác tuyệt đối.
Thời gian tính GDP bình quân đầu người được xác định theo 1 năm tức là 365 ngày. Mặc dù thống kê chỉ mang tính chất tương đối nhưng đây là chỉ tiêu rất quan trọng đối với tất cả các quốc gia trong nền kinh tế. Chỉ số GDP cao sẽ tỉ lệ thuận với mức thu nhập và đời sống của người dân ở quốc gia đó.
Tuy nhiên, có một số những quốc gia, chỉ số GDP cao nhưng chưa chắc đã là quốc gia có mức sống cao nhất.
Cách tính chỉ số GDP
Để tính GDP sẽ có 3 cách khác nhau gồm: Tính tổng chi tiêu, tính theo thu nhập và tính theo giá trị gia tăng.
Phương pháp tính GDP theo tổng chi tiêu
Phương pháp tính GDP theo tổng chi tiêu của một quốc gia sẽ được tính bằng tổng số tiền mã mỗi hộ gia đình sẽ dùng để mua sắm và sử dụng các dịch vụ quốc gia đó.
Công thức tính GDP theo tổng chi tiêu như sau:
GDP = C + I + G + NX
Trong đó
- C = Consumtion = Tiêu dùng: bao gồm những khoản chi cho tiêu dùng cá nhân của các hộ gia đình về hàng hóa và dịch vụ.
- I = Investment = Tổng đầu tư ở trong nước của tư nhân: bao gồm các khoản chi tiêu của doanh nghiệp về trang thiết bị và nhà xưởng hay sự xây dựng, mua nhà mới của hộ gia đình
- G = Government Purchases = Chi tiêu Chính phủ: bao gồm các khoản chi tiêu của chính phủ cho các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương như chi cho quốc phòng, luật pháp, đường sá, cầu cống, giáo dục, y tế,…
- NX = Net exports = Xuất khẩu ròng = Giá trị xuất khẩu – Giá trị nhập khẩu
Phương pháp tính GDP theo thu nhập
Phương pháp tính GDP theo thu nhập thông qua tiền lương, tiền lãi, lợi nhuận và tiền thuê tại nền kinh tế nội địa. Cụ thể công thức tính GDP theo thu nhập sẽ như sau:
GDP = W + R + I + Pr + Ti + De
Theo công thức đó:
- W (Wage): Tiền lương.
- R (Rent): Tiền thuê.
- I (Interest): Tiền lãi.
- Pr (Profit): Lợi nhuận.
- Ti (Indirect tax): Thuế gián thu ròng. Có nghĩa đây là các khoản thuế được đánh vào dịch vụ hay hàng hóa được bán trên thị trường cũng như trợ cấp của chính phủ cho sản xuất.
- De (Depreciation): Khấu hao tài sản cố định.
Phương pháp tính GDP theo giá trị gia tăng
Phương pháp tính GDP theo giá trị gia tăng đơn giản và không quá khó. Bạn có thể tính ra kết quả bằng cách cộng tất cả các giá trị gia tăng của nền kinh tế. Công thức tính GDP theo giá trị gia tăng sẽ như sau:
Công thức 1: GDP = Giá trị tăng thêm + Thuế nhập khẩu
Công thức 2: GDP = Giá trị sản xuất – Chi phí trung gian + Thuế nhập khẩu.
Theo công thức đó, có thể tính như sau:
Giá trị tăng thêm có thể là thu nhập của người sản xuất bao gồm: Khấu hao tài sản cố định, tiền công, thuế sản xuất (thuế hàng hóa và các chi phí khác), bảo hiểm, giá trị thặng dư…
Ý nghĩa của chỉ số GDP
GDP đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi vùng miền, khu vực và quốc gia. Các chuyên gia kinh tế, chính trị… sẽ dựa theo chỉ số GDP này để đánh giá được tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời có thể nghiên cứu được sự biến động của các loại hình sản phẩm và dịch vụ theo những mốc thời gian nhất định.
Chỉ số GDP bình quân đầu người cho thấy mức thu nhập tương đối và chất lượng cuộc sống của người dân
Chỉ số GDP cũng cho thấy về tình trạng kinh tế hiện tại của một quốc gia. GDP giảm chính là biểu thị cho sự suy giảm của nền kinh tế dẫn đến tình trạng suy thoái, lạm phát, thất nghiệp, mất giá đồng tiền… Từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới các công ty, doanh nghiệp hay đời sống của chính những người dân thuộc quốc gia đó. Vì thế qua đánh giá chỉ số GDP, các quốc gia đều cần có các chính sách, hướng phát triển để duy trì được chỉ số GDP ổn định.
GDP chính là tổng số tiền mà 1 quốc gia thu được thông qua việc tạo ra các sản phẩm và dịch vụ. Một quốc gia phát triển sẽ phải có GDP cao và tăng dần.
Thống kê GDP của Việt Nam
Một số dữ liệu 16 năm gần đây (2000-2016) – Nguồn: Tổng cục Thống kê | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | 2016 |
GDP (tỷ USD, làm tròn) |
31 | 32 | 35 | 39 | 45 | 52 | 60 | 70 | 89 | 91 | 101 | 135,5 | 155.8 | 171,2 | 186,2 | 193,2 | 202,6 |
GDP/đầu người (USD) |
402 | 416 | 441 | 492 | 561 | 642 | 730 | 843 | 1052 | 1064 | 1168 | 1.300 | 1.540 | 1.960 | 2.028 | 2109 | 2.215 |
Tỉ lệ tăng giảm GDP (tăng giảm % so với năm trước) |
6,8 | 6,9 | 7,1 | 7,3 | 7,8 | 8,4 | 8,2 | 8,5 | 6,2 | 5,3 | 6,7 | 5,89 | 5,03 | 5,42 | 5,98 | 6,68 | 6,21 |
Tỉ lệ tăng giảm GDP (%) theo Ngân hàng Thế giới |
6,79 | 6,19 | 6,32 | 6,90 | 7,54 | 7,55 | 6,98 | 7,13 | 5,66 | 5,40 | 6,42 | 6,24 | 5,25 | 5,42 | 5,98 | 6,68 | 6,21 |
CẢNH BÁO: Đầu tư vào các sản phẩm tài chính tiềm ẩn rất nhiều rủi ro mà có thể không phù hợp với một số nhà đầu tư. Do đó hãy cân nhắc kỹ lưỡng và làm chủ bản thân trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào cấu thành từ những nội dung tham khảo tại website này. Đồng thời bạn có thể THAM GIA NHÓM THẢO LUẬN của chúng tôi để thảo luận thêm về những gì bạn đang quan tâm.
Theo Crypto Viet