Chào bạn đọc. Today, tôi xin góp chút kinh nghiệm cá nhân về mẹo vặt, kinh nghiệm không thể thiếu khi tham gia thị trường tài chính bằng nội dung Mô hình định giá tài sản vốn (Capital asset pricing model
Phần nhiều nguồn đều đc update thông tin từ các nguồn trang web nổi tiếng khác nên chắc chắn có vài phần khó hiểu.
Mong mỗi người thông cảm, xin nhận góp ý và gạch đá dưới phản hồi
Mong bạn đọc đọc bài viết này ở nơi không có tiếng ồn kín đáo để có hiệu quả cao nhất
Tránh xa toàn bộ các dòng thiết bị gây xao nhoãng trong việc tập kết
Bookmark lại bài viết vì mình sẽ update liên tục
Mô hình định giá tài sản vốn (tiếng Anh: Capital capital property price model – CAPM) là mô hình định giá mô tả mối quan hệ rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của tài sản, đặc biệt là cổ phiếu.
Hình minh họa. Nguồn: cdn.wallstreetmojo.com
Mô hình định giá tài sản vốn (Mô hình định giá tài sản vốn – CAPM)
Mô hình định giá vốn sản xuất in English is Mô hình định giá tài sản vốn, viết tắt là CAPM.
Mô hình định giá vốn sản xuất is the description of the model description of the rủi ro hệ thống và lợi nhuận kỳ vọng của tài sản, đặc biệt là cổ phiếu. (Theo: Investopedia)
In which, rủi ro hệ thống is an ro risk owner for the TOÀN the field or the paracial market. This ro rủi ro loại không thể dự đoán và không thể tránh toàn bộ. Ví dụ như rủi ro thay đổi chính sách của bao phủ chính, rủi ro đến từ tự nhiên điều kiện (bão lụt, hạn hán …)
Mô hình định giá tài sản sản xuất (CAPM) is an in the new important things in the lí thuyết danh mục đầu tư. CAPM được giới thiệu bởi William Sharpe, John Lintner, Jack Treynor và Jan Mossin và được xây dựng dựa trên lý thuyết của Harry Markowitz về đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Công thức:
E (Ri) = Rf + βi [E(Rm) – Rf]
– E (Ri): Mức lợi nhuận kỳ vọng cho danh mục tôi
– E (Rm): Mức lợi nhuận không rủi ro
– Rf: Mức lợi nhuận kỳ vọng của toàn bộ thị trường.
– βi (Hệ thống số beta): Chứng khoán độ nhạy đối với sự thay đổi trên trường
+ βi = 1: Biến thiên bằng trường, rủi ro bằng mức trung bình của trường
+ βi> 1: Rủi ro cao hơn mức trung bình của trường thị
+ βi
Các giả định của CAPM mô hình
1. Mức rủi ro: To accept a risk ro largeer level, các nhà tư vấn đặt câu hỏi về lợi ích kinh tế cao hơn.
Các nhà đầu tư chọn danh mục đầu tư, dựa trên cá nhân sở thích của họ, với sự rủi ro và mong muốn tối đa hóa lợi nhuận.
2. Thị trường hoàn: Không thanh toán phí giao dịch, không thuế, được phép bán, được phép vay và cho vay với lãi suất phi rủi ro.
3. Nhà đầu tư có kế hoạch nắm giữ một thời kỳ giống nhau: CAPM là mô hình một giai đoạn và tất cả các quyết định của nhà đầu tư được thực hiện trên cơ sở một giai đoạn đó.
4. Các nhà đầu tư có cùng kỳ vọng về đầu tư cơ hội
5. Đầu tư các tài khoản đều được chia nhỏ một cách hạn chế: Một cá nhân có thể đầu tư ít hoặc nhiều theo mong muốn của họ vào một tài sản.
This Giả định cho phép mô hình dựa vào liên tục các chức năng thay vì các chức năng rời rạc. Do đó, nó được đưa ra chỉ để thuận tiện cho việc chạy mô hình và có tác động không đáng kể đến kết luận của mô hình.
6. Không có tư vấn nào đủ lớn để ảnh hưởng đến giá cả of stock on market, các nhà đầu tư được tiếp cận thông tin như nhau.
CAPM ứng dụng
– Ước tính lợi nhuận kỳ vọng
– Đánh giá hiệu quả đầu tư mục
– Giúp nhà đầu tư đưa ra các quyết định về cổ phiếu
– Xây dựng danh mục đầu tư: Dựa vào mô hình này, nhà đầu tư nên giữ mối liên kết giữa tài sản phi rủi ro và có tính chất rủi ro hơn (cổ phiếu)
CAPM giới hạn
Giới hạn về lí thuyết
– A Element: Chỉ hệ thống ro rủi ro (Beta) được định giá trong CAPM.Trong khi sự thay đổi của các tư vấn chịu ảnh hưởng của rất nhiều rủi ro khác nhau.
– Mô hình một giai đoạn: CAPM is a model of a stage of a stage, not see a effect of many period or the headart of the stage in the future. Vì vậy, nó không thể nắm bắt các thay đổi yếu tố trong các kỳ tiếp theo.
Giới hạn trong quá trình ứng dụng
– Danh mục đầu tư: Danh mục đầu tư theo CAPM bao gồm tất cả các sản phẩm (tài sản chính và phi tài chính). Có nghĩa là nó cũng bao gồm nhiều tài sản không thể đầu tư, như nguồn vốn về con người và tài sản trong nền kinh tế đóng.
– Ban đầu tư vấn đề: Khi nhà quản lý đầu tư, các nhà phân tích khác nhau, các quốc gia khác nhau sẽ tạo ra lợi nhuận khác nhau cho cùng một sản phẩm. This left with the author of CAPM.
– Beta rủi ro tính toán: Cần có dữ liệu đủ dài về lợi nhuận (từ ba đến năm) để tính toán rủi ro beta. Ngoài ra, mô hình sử dụng các giai đoạn khác nhau để ước tính kết quả trong các bản beta ước tính khác nhau.
Ví dụ, beta ba năm sẽ khách hàng phiên bản beta năm và phiên bản beta được ước tính với lợi nhuận hàng ngày không giống với phiên bản beta được ước tính với tiền hàng tháng. Do đó, chúng ta có thể ước tính mang lại lợi ích khác nhau cho cùng một tài sản thuộc tính toán rủi ro ro beta được sử dụng trong mô hình.
(Nguồn tham khảo: CFA Education level 1 năm 2019)
Nguồn tổng hợp