Hi quý vị. Hôm nay, mình sẽ đưa ra đánh giá khách quan về các tips, tricks hữu ích phải biết khi tham gia vào thị trường tài chính qua bài viết Qui luật lưu thông tiền tệ (The Law of Monetary Circulation) là gì?
Phần lớn nguồn đều đc cập nhật ý tưởng từ những nguồn trang web nổi tiếng khác nên chắc chắn có vài phần khó hiểu.
Mong mỗi người thông cảm, xin nhận góp ý & gạch đá dưới comment
Quý độc giả vui lòng đọc bài viết này ở nơi riêng tư kín để đạt hiệu quả tối ưu nhất
Tránh xa tất cả những dòng thiết bị gây xao nhoãng trong công việc đọc bài
Bookmark lại bài viết vì mình sẽ update thường xuyên
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật điều chỉnh lượng tiền cần thiết cho quá trình lưu thông hàng hoá trong một khoảng thời gian nhất định.
Hình minh họa (Nguồn: WallPick – Hình nền đẹp nhất 4K)
Quy luật lưu thông tiền tệ
Ý tưởng
Quy luật lưu thông tiền tệ trong tiếng anh là Quy luật lưu thông tiền tệ.
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần thiết cho quá trình lưu thông hàng hoá trong một thời gian nhất định. Quy tắc này được thể hiện như sau:
Lượng tiền cần thiết để lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định được xác định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho vận tốc của tiền tệ.
Phía trong:
– Tốc độ lưu thông của tiền tệ là số vòng quay bình quân của một đơn vị tiền tệ.
– Tổng giá của từng hàng hóa bằng giá nhân với khối lượng đưa vào lưu thông của hàng hóa đó. Tổng giá cả của hàng hoá đang lưu thông bằng tổng giá cả của tất cả các hàng hoá đang lưu thông.
Lượng tiền cần thiết cho sự luân chuyển này được tính toán trong một khoảng thời gian nhất định, vì vậy khi áp dụng công thức này, cần lưu ý một số điểm:
– Trong cách tính tổng giá thành phải loại trừ những hàng hoá không đưa vào lưu thông trong kỳ đó như: hàng hoá dự trữ, tồn kho không bán được hoặc chuyển sang giai đoạn sau; hàng hóa đã bán (mua) phải được thanh toán bằng tiền mặt cho đến kỳ sau; hàng hoá để trao đổi trực tiếp với hàng hoá khác; Hàng hóa được mua (bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ, chuyển khoản, v.v.
– Phải bổ sung thêm số tiền cần thiết để dòng tiền ứng trước, đặt hàng kỳ này nhưng chỉ nhận hàng kỳ sau, còn số tiền mua (bán) hàng hóa đã đến kỳ thanh toán. . .
Lạm phát
Lạm phát luôn đi kèm với sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa, làm cho giá trị của mỗi đơn vị tiền tệ giảm xuống và sức mua của đồng tiền giảm xuống.
Điều này là do khi lượng tiền phát hành vượt quá mức cần thiết, sẽ xảy ra tình trạng ứ đọng tiền tệ; người có tiền sẵn sàng cho vay với lãi suất thấp hơn, sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn hơn để mua một đơn vị hàng hoá, làm cho hàng hoá trở nên khan hiếm, giá cả leo thang …
Có thể nói, bề mặt của lạm phát luôn là mặt bằng giá chung tăng, giá trị đồng tiền giảm, sức mua đồng tiền giảm. Do đó, để đo lường lạm phát, người ta sử dụng chỉ số giá cả. Có hai loại chỉ số giá thường được sử dụng trong thống kê kinh tế là chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng.
(Tham khảo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin – NXB Chính trị Quốc gia)
Nguồn tổng hợp